PECC2 CHIA SẺ VÀ HỌC HỎI VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN LƯỚI ĐIỆN TẠI DIỄN ĐÀN KHU VỰC ASEAN

Ngày 29 – 30/10/2025, tại Đại học Quốc gia Singapore, Diễn đàn “Khơi thông dòng vốn tư nhân tại ASEAN: Các mô hình đầu tư bên thứ ba cho lưới điện xanh và kết nối khu vực” đã được Viện Môi trường & Bền vững thuộc Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew School of Public Policy), Đại học Quốc gia Singapore (NUS) chủ trì tổ chức. Đồng tổ chức diễn đàn còn có Ban Năng lượng thuộc Ủy ban Kinh tế – Xã hội Liên Hợp Quốc khu vực châu Á – Thái Bình Dương (UN ESCAP) và Agora Energiewende - Tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách độc lập (think tank) của Đức chuyên về chuyển dịch năng lượng. 

Toàn cảnh Diễn đàn.

Diễn đàn có các bài tham luận của các đại diện đến từ các Công ty điện lực quốc gia các nước Lào, Campodia, Myanmar, và Malaysia, Bộ Năng lượng Philipine, Sembcorp Industries (Tập đoàn năng lượng và hạ tầng của Singapore), PECC2, China Southern Power Grid (CSG), International Energy Agency (IEA), UN ESCAP, Convergence Finance, và Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, NUS. Bên cạnh đó, diễn đàn còn có hai phiên tọa đàm với sự tham dự của đại diện Impact Electronics Siam, Asian Development Bank (ADB), Energy Market Authority of Singapore (EMA), Convergence Finance, Mitsubishi UFJ Financial Group (MUFG), Global Energy Alliance for People and Planet (GEAPP), và Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) về 2 chủ đề: (1) Câu chuyện mô hình tài chính dự án điện gió Monsoon, (2)  Các tiếp cận tài chính khí hậu cho lưới điện ASEAN. Diễn đàn là một cơ hội rất quý báu để các bên trao đổi góc nhìn và học hỏi kinh nghiệm quốc tế về huy động vốn đầu tư hạ tầng truyền tải. 

Tại diễn đàn, đại diện PECC2, Ông Trần Huỳnh Ngọc – Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu phát triển, PECC2 (Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 2) đã có bài tham luận với chủ đề “Cơ chế tài chính cho phát triển lưới điện tại Việt Nam”, tập trung phân tích bối cảnh hệ thống điện quốc gia, nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng truyền tải, những thách thức trong huy động vốn và các xu hướng hợp tác huy động vốn tiềm năng cho hạ tầng truyền tải điện Việt Nam trong quá trình chuyển dịch năng lượng.

Bài tham luận đã nêu ra bối cảnh hệ thống điện và nhu cầu đầu tư lưới điện. Theo đó, tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện Việt Nam tính đến giữa năm 2025 đạt khoảng 89 GW, với nguồn năng lượng tái tạo (điện gió và điện mặt trời) chiếm 26% công suất và 13% sản lượng điện phát trong năm 2024. Tuy nhiên, tính bất ổn định và phân bố không đều của các nguồn năng lượng tái tạo đang tạo áp lực lớn lên hệ thống truyền tải 500 kV và 220 kV, đặc biệt là trên trục Bắc – Trung – Nam. Quy hoạch điện VIII điều chỉnh (ban hành tháng 4/2025) đặt mục tiêu đến năm 2030 nguồn năng lượng tái tạo chiếm 28% tổng sản lượng điện quốc gia, cùng với định hướng xuất khẩu 5–10 GW điện tái tạo sang Singapore, Malaysia và khu vực. Để phù hợp với nhu cầu phát triển hệ thống điện giai đoạn 2025–2030, hệ thống truyền tải cần được mở rộng với quy mô phát triển trong 5 năm tới tương đương khối lượng đã đạt được trong suốt 71 năm qua (1954–2025). Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn 2025–2030 được ước tính hơn 18 tỷ USD cho hệ thống truyền tải và khoảng 5,6 tỷ USD cho hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS, thủy điện tích năng).

Bài tham luận cũng chỉ ra sáu nhóm thách thức lớn trong tài chính lưới điện Việt Nam, bao gồm: nhu cầu vốn rất lớn trong khi khả năng huy động của EVN bị hạn chế do tỷ lệ nợ/tài sản cao; rủi ro tỷ giá và lãi suất đối với các khoản vay dài hạn; cơ chế giá điện thấp, hạn chế về các cơ chế thu hồi chi phí cho nhà đầu tư tư nhân; quy trình phê duyệt và giải phóng mặt bằng phức tạp, kéo dài tiến độ dự án; khung pháp lý cho đầu tư tư nhân vào lưới truyền tải và hệ thống lưu trữ năng lượng chưa hoàn thiện; cùng với việc chưa hình thành thị trường dịch vụ phụ trợ và cơ chế giá dành cho hệ thống lưu trữ điện (BESS).

Việt Nam hiện đang nghiên cứu nhiều mô hình tài chính mới nhằm huy động nguồn vốn tư nhân cho đầu tư hạ tầng truyền tải (bao gồm cả truyền tải linh hoạt), gồm hợp tác công – tư (PPP), chứng khoán hóa tài sản hoặc thành lập quỹ hạ tầng (Infrastructure Fund), tài chính khí hậu quốc tế (International Climate Finance) và cấu trúc tài chính lai (Blended Finance) kết hợp vốn công, vốn ODA và vốn tư nhân. Đây được xem là hướng đi tiềm năng để khuyến khích các nhà đầu tư ngoài EVN tham gia phát triển lưới điện, đặc biệt tại các khu công nghiệp, khu vực năng lượng tái tạo và những dự án lưới điện kết nối khu vực ASEAN. Đồng thời, việc hoàn thiện mô hình thị trường điện cạnh tranh, đổi mới cơ chế giá truyền tải và cho phép quyền sở hữu lưới mở (open access) được xem là nhân tố then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân.

Bài tham luận kết luận rằng, việc xây dựng cơ chế tài chính minh bạch, linh hoạt và có tính cạnh tranh cao sẽ đóng vai trò then chốt giúp Việt Nam huy động hiệu quả nguồn lực xã hội cho phát triển lưới điện xanh, góp phần hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải và tăng cường kết nối năng lượng trong khu vực ASEAN.

Thực hiện: PECC2

Chia sẻ: