1. Tổng quan về chứng chỉ năng lượng tái tạo
1.1. Giá trị tăng thêm cho điện năng từ nguồn tái tạo
Chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC) là một giấy chứng nhận điện tử giúp xác nhận một lượng điện năng đã được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo. Chứng chỉ này có thể được giao dịch trên thị trường riêng, tách biệt với thị trường điện và cho phép bên sở hữu chứng minh rằng họ đã sử dụng lượng điện tương ứng từ nguồn tái tạo.
Trong thị trường điện, bản thân điện năng không phản ánh các thuộc tính đại diện cho nguồn gốc hay cách thức tạo ra chúng. Điện từ nhiều nguồn, gồm cả nhiên liệu hóa thạch và năng lượng tái tạo được phát lên lưới, sau đó được truyền tải và phân phối tới người dùng ở một nơi khác. Việc sử dụng điện ở đây đơn thuần là sử dụng giá trị năng lượng dạng vật lý (theo MWh) và không phân biệt năng lượng đó được sản xuất ở đâu, bằng loại công nghệ nào, vào thời gian nào. Để phân biệt điện sản xuất từ nguồn tái tạo với các nguồn khác, cần có một công cụ giúp chứng nhận nguồn gốc tái tạo gắn với sản lượng điện nhất định – chứng chỉ năng lượng tái tạo là một công cụ như vậy. Chứng chỉ REC đóng vai trò quan trọng trong việc hạch toán, theo dõi và phân bổ quyền sở hữu cho việc sản xuất và sử dụng điện năng lượng tái tạo. REC thuộc nhóm Chứng chỉ thuộc tính năng lượng (EAC), bao gồm cả chứng chỉ áp dụng cho tất cả các nguồn năng lượng nói chung, không chỉ giới hạn ở năng lượng tái tạo (Hình 1).
Hình 1: Thị trường năng lượng và thị trường chứng chỉ năng lượng.
REC thúc đẩy chuyển dịch năng lượng bằng cách tăng thêm giá trị cho điện năng từ nguồn tái tạo. Với mỗi đơn vị MWh điện tạo ra, chủ đầu tư các nhà máy sản xuất điện từ gió, mặt trời và các nguồn tái tạo khác có thể đăng ký một đơn vị REC tương ứng. Tương tự như các chứng chỉ thuộc tính năng lượng khác, REC được phép giao dịch và mang lại nguồn thu cho đơn vị sở hữu. Các giao dịch được thực hiện trên thị trường bằng một nền tảng giao dịch, dựa vào thuộc tính năng lượng đã được số hóa và chứng nhận bởi một bên thứ ba.
Theo Bộ Công Thương, thị trường REC Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2030 [12]. Tuy vậy, hiện nay các cơ chế pháp lý liên quan đến việc mua bán, trao đổi chứng chỉ năng lượng tái tạo vẫn chưa được quy định cụ thể. Ngày 14/6/2024, trong Kế hoạch số 4107/KH-BCT của Bộ Công thương đã đề cập tới việc triển khai rà soát cơ sở pháp lý, tình hình thực tiễn trong nước và kinh nghiệm quốc tế về hoạt động quản lý, mua bán, trao đổi REC gắn với việc thực hiện mục tiêu giảm phát thải quốc gia, đề xuất quy định quản lý. Đây có thể là bước đầu cho việc hình thành các quy định riêng cho chứng chỉ năng lượng tái tạo trong tương lai.
1.2. Hiện trạng phát triển thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo
Trên thế giới hiện nay đang có nhiều hệ thống chứng chỉ năng lượng khác nhau (Hình 5.11), trong đó có các thị trường sử dụng loại chứng chỉ riêng theo quốc gia, khu vực, ví dụ như châu Âu (GoO), Bắc Mỹ (REC), Trung Quốc (GECs), Úc (LGCs); và các thị trường dùng chứng chỉ quốc tế (i-REC, TIGRs) [13]. Trong các chứng chỉ có khả năng giao dịch quốc tế, i-REC chiếm thị phần tới 95% [14].
Hình 2: Các loại chứng chỉ thuộc tính năng lượng (EAC) trên thế giới [13]
Tương tự như thị trường các-bon, thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo cũng có thể phân chia thành hai loại: thị trường tự nguyện và thị trường bắt buộc. Tuy Việt Nam đã có các quy định về tiêu chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo cho các đơn vị phát điện và phân phối điện được nêu trong Quyết định số 2068/QĐ-Ttg ban hành ngày 25/11/2015, nhưng hiện vẫn chưa có các văn bản pháp luật hướng dẫn triển khai cụ thể việc thực hiện các quy định này. Do vậy, thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo tại Việt Nam vẫn là các thị trường có tính chất tự nguyện [15].
Tại Việt Nam, chứng chỉ năng lượng tái tạo được phát hành trên hai hệ thống i-REC và TIGRs. Chứng chỉ i-REC (International Renewable Energy Certificate) vận hành từ năm 2014 và có phạm vi giao dịch tại hơn 60 nước trên thế giới [16]. Nền tảng giao dịch TIGRs (Tradable Instrument for Global Renewables) được giới thiệu lần đầu năm 2016 bởi công ty APX giúp tạo, chứng nhận và giao dịch các chứng chỉ năng lượng tái tạo ngoài khu vực Bắc Mỹ (nhằm phân biệt với REC tại thị trường Bắc Mỹ) [17]. Nếu tính theo công suất đặt, thị phần dự án trên hệ thống i-REC nhiều gấp 10 lần so với TIGR tại Việt Nam [18].
Theo thống kê của I-TRACK Foundation - tổ chức sáng lập ra i-REC, chứng chỉ i-REC tại Việt Nam được cấp chủ yếu cho 3 nguồn năng lượng: mặt trời, thủy điện, gió (Hình 5.12). Các dự án thủy điện tham gia thị trường năng lượng tái tạo ngay từ năm 2015 khi i-REC vừa được giới thiệu và vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2019, các dự án điện mặt trời bắt đầu tham gia vào thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo với tỷ trọng tăng dần và hiện chiếm 29%. Điện gió được đăng ký từ năm 2020, chiếm 9% lượng chứng chỉ i-REC đã phát hành.
Tính theo thời điểm ghi nhận sản lượng điện, số lượng chứng chỉ i-REC được cấp tăng mạnh từ năm 2022 tới nay, chiếm tới 84% tổng lượng chứng chỉ. Chỉ tính riêng cho sản lượng điện ghi nhận năm 2022, lượng chứng chỉ được phát hành đã gấp đôi cả giai đoạn trước đó, bắt đầu từ năm 2015. Năm 2023, tổng lượng chứng chỉ được cấp là hơn 21 triệu chứng chỉ (tương ứng với lượng điện ghi nhận 21 triệu MWh). Hiện các số liệu sản lượng điện của năm 2024 vẫn đang trong quá trình đăng ký và chứng nhận. Việc tăng nhanh lượng chứng chỉ được cấp phát dẫn tới mất cân bằng cung cầu trong thời gian gần đây khiến giá chứng chỉ giảm mạnh. Số liệu tháng 8/2024 so với mốc tháng 3/2024, giá i-REC điện gió và điện mặt trời đã giảm từ 66 cents/MWh xuống 51 cents/MWh, giá i-REC thủy điện giảm từ 25 cents/MWh xuống 19 cents/MWh [19].
Hình 3: Chứng chỉ i-REC phát hành tại Việt Nam: a) Theo số lượng; b) Theo tỷ trọng các loại năng lượng (Nguồn: dữ liệu từ I-TRACK Foundation)
Giá REC có sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia trong khu vực. Theo số liệu thu thập năm 2022, tại thị trường Việt Nam, khoảng giá có chênh lệch lớn từ 0,25 tới 2,04 USD. Các thị trường khác trong Đông Nam Á có giá chứng chỉ ổn định hơn, như được thống kê trong Bảng 5.3. Sáu quốc gia ASEAN được lấy số liệu đều giao dịch chứng chỉ tự nguyện và được phát hành chủ yếu bởi hai hệ thống i-REC và TIGR.
Bảng 1: Chứng chỉ năng lượng tái tạo tại một số quốc gia ASEAN [20]
|
Indonesia |
Malaysia |
Philippines |
Singapore |
Thái Lan |
Việt Nam |
Công suất đăng ký |
4,3 TWh |
4,0 TWh |
6,3 TWh |
1,2 TWh |
6,5 TWh |
6,8 TWh |
Giá REC (USD) |
2,29 (giao dịch qua PLN) |
8,3 (giao dịch qua mGAT kèm PPA) |
N/A |
11,3 – 18,8 |
1,47 |
0,25 – 2,04 |
1.3. Vai trò của chứng chỉ năng lượng tái tạo trong chuyển dịch năng lượng
Tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo là hai công cụ giúp thúc đẩy chuyển dịch năng lượng, phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cả hai công cụ này đều tạo ra dòng tài chính mới, hỗ trợ các dự án đầu tư vào công nghệ sạch và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các công cụ này là khác nhau ở cách tiếp cận khi triển khai việc giảm phát thải, trong khi tín chỉ các-bon khuyến khích việc trực tiếp giảm phát thải từ đổi mới công nghệ, giải pháp thì chứng chỉ năng lượng tái tạo gián tiếp làm giảm phát thải liên quan tới lượng điện sử dụng bằng việc chứng nhận nguồn điện sạch.
Đối với các doanh nghiệp có nhu cầu chứng minh việc tiêu thụ điện từ năng lượng tái tạo, REC đóng góp vai trò quan trọng với các cách tiếp cận phổ biến sau [21]:
Doanh nghiệp có thể lựa chọn tín chỉ các-bon hoặc chứng chỉ năng lượng tái tạo theo các cách tiếp cận đa dạng nêu trên, tùy thuộc vào quy định liên quan hoặc nhu cầu tự nguyện. Khi tham gia vào thị trường REC, doanh nghiệp có những lợi ích [18]:
Mặc dù đối tượng xem xét của tín chỉ các-bon (dựa trên lượng giảm phát thải khí nhà kính tính theo tấn các-bon) khác với chứng chỉ năng lượng tái tạo, cả hai loại chứng chỉ đều mang lại lợi ích tương tự cho các doanh nghiệp tạo ra và sở hữu chúng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
2. Cơ chế phát hành và giao dịch chứng chỉ năng lượng tái tạo
2.1. Hệ thống Chứng chỉ năng lượng tái tạo và các bên liên quan
Chứng chỉ năng lượng tái tạo được phát hành tại Việt Nam chủ yếu là i-REC. Hình 5.13 phân chia các bên liên quan theo 3 vai trò chính trong việc hình thành thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo i-REC: Tổ chức thiết lập tiêu chuẩn, Điều hành thị trường, Tham gia thị trường. Tổ chức i-REC Standard Foundation sáng lập và sở hữu tiêu chuẩn i-REC. Trong việc điều hành thị trường, Evident là đơn vị chịu trách nhiệm chính giúp cung cấp các dịch vụ đăng ký, quản lý mã số cho chứng chỉ và ủy quyền cho cơ quan phát hành chứng chỉ. Các cơ quan phát hành chứng chỉ hoạt động tại một số khu vực địa lý nhất định, là nơi hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ từ bên đăng ký chứng chỉ. Đối với các đăng ký tại Việt Nam, Green Certificate Company đóng vai trò là Cơ quan phát hành chứng chỉ. Việc phát hành I-REC tại các quốc gia hầu hết đều do các tổ chức độc lập thực hiện. Tuy vậy, tại một số quốc gia như Thái Lan, Singapore, việc phát hành I-REC do các công ty điện lực nhà nước (EGAT, SP Group) thực hiện [11].
Hình 4: Các bên liên quan trong hệ thống Chứng chỉ năng lượng tái tạo [22]
Bên đăng ký có thể là chủ sở hữu nhà máy điện hoặc đơn vị tư vấn được chủ nhà máy ủy quyền thực hiện dịch vụ đăng ký. Bên đăng ký có thể ký hợp đồng với một hoặc nhiều cơ quan phát hành, tuy nhiên mỗi chủ sở hữu nhà máy điện chỉ có thể được đăng ký bởi một cơ quan phát hành duy nhất. Bên đăng ký cũng có thể đồng thời là bên tham gia – bên được cung cấp tài khoản và thực hiện các giao dịch. Chứng chỉ được giao dịch trên thị trường trước khi tới bên được thừa hưởng hay người dùng cuối, đây là cá nhân hoặc tổ chức có quyền mua và tuyên bố sử dụng chứng chỉ năng lượng tái tạo [22].
Đơn vị tư vấn tại Việt Nam có thể tham gia thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo thông qua một trong hai hình thức sau:
2.2. Vòng đời của REC
Các hệ thống chứng chỉ có chung một cách tiếp cận cơ bản để xác định vòng đời của một chứng chỉ tương ứng, bao gồm các giai đoạn sau (Hình 5):
Hình 5: Minh họa vòng đời của chứng chỉ năng lượng tái tạo [11]
Người dùng cuối sử dụng một REC bằng cách đăng ký hủy nó (tránh rủi ro về việc một REC được sử dụng hai lần). Sau khi hủy một REC, người dùng cuối có thể tuyên bố/được xác nhận đã tiêu thụ đơn vị năng lượng tái tạo.
3. Một số phân tích, nhận định
3.1. So sánh tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo
Đối với các doanh nghiệp cung cấp điện từ nguồn tái tạo tại Việt Nam, trước khi chứng chỉ REC ra đời, tín chỉ các-bon có thể coi là lựa chọn duy nhất để chứng nhận các thuộc tính môi trường cho lượng điện sản xuất ra. Từ năm 2015 với sự ra đời của hệ thống tiêu chuẩn i-REC và sau đó là hệ thống TIGR năm 2016, chứng chỉ REC cung cấp thêm lựa chọn thay thế tín chỉ các-bon cho các doanh nghiệp sở hữu nguồn điện sạch. Chứng chỉ REC có nhiều ưu điểm như: quá trình đăng ký và phát hành đơn giản, nhanh chóng, chi phí cho việc chứng nhận thấp hơn. Khi so sánh thời gian từ lúc đăng ký tới lúc phát hành, dự án đăng ký theo chứng chỉ REC sẽ mất từ 3 – 4 tháng so với 2 – 3 năm theo cơ chế tín chỉ các-bon [20].
Sự khác nhau giữa tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo được tổng hợp trong Bảng 5.4 dưới đây [18]:
Bảng 2: Sự khác nhau giữa tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo
Đặc điểm |
Chứng chỉ REC |
Tín chỉ các-bon |
Đo lường |
Đo lường trên 1 MWh điện sản xuất từ năng lượng tái tạo. |
Đo lường trên tấn các-bon giảm/tránh hoặc thu giữ được. |
Kiểm tra |
Bên thứ 3 chứng nhận lượng điện sản sinh ra từ năng lượng tái tạo bằng thông số trên công tơ hoặc dữ liệu từ đơn vị phân phối điện. |
Cá nhân/tổ chức tư vấn độc lập chứng minh sự giảm phát thải so với kịch bản cơ sở và dự án sẽ không khả thi nếu không có hỗ trợ về tài chính từ tín chỉ các-bon. |
Mục đích |
Chứng minh việc sản xuất/tiêu thụ điện từ năng lượng tái tạo. Thường được sử dụng cho mục đích tự nguyện, nhưng cũng có thể dùng để chứng minh việc tuân thủ các quy định. |
Tự nguyện: Đơn vị phát thải dùng tín chỉ các-bon để bù đắp lượng phát thải, ví dụ khi đơn vị phát thải không thể can thiệp trực tiếp vào việc giảm phát thải tại nguồn. Bắt buộc: theo cơ chế giao dịch tín chỉ phát thải, khi đơn vị phát thải mua/bán lượng tín chỉ các-bon dựa trên hạn mức phát thải cho phép. |
Đối với đơn vị phát triển dự án năng lượng sạch, lợi ích về kinh tế và thủ tục đăng ký thuận tiện có thể là những yếu tố cần đặt lên trước để lựa chọn. Xét trường hợp lưới điện Việt Nam năm 2021, với hệ số phát thải được công bố là 0,7221 tCO2/MWh, chứng chỉ năng lượng tái tạo và tín chỉ các-bon được xem là cạnh tranh về giá nếu giá chứng chỉ năng lượng tái tạo bằng 0,7221 lần giá tín chỉ các-bon. Với giá tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo (I-REC) được thống kê tại Việt Nam hiện nay lần lượt là 5-7 USD/tín chỉ các-bon và 0,25-2,04 USD/chứng chỉ I-REC, chứng chỉ I-REC đang kém cạnh tranh hơn so với tín chỉ các-bon.
Đối với đơn vị có nhu cầu sử dụng các loại tín chỉ/chứng chỉ nêu trên, việc lựa chọn loại hình nào phụ thuộc vào các yếu tố như: nhu cầu của chính doanh nghiệp, quy định bắt buộc và chi phí. Nhiều doanh nghiệp không chỉ sử dụng điện năng làm năng lượng đầu vào nên việc lựa chọn sử dụng tín chỉ các-bon sẽ phù hợp hơn, trong khi đó chứng chỉ năng lượng tái tạo chỉ tập trung vào điện sản sinh từ nguồn tái tạo. Nhu cầu về loại hình tín chỉ/chứng chỉ cũng có thể đến từ phía khách hàng, đặc biệt là các công ty lớn, yêu cầu các nhà cung cấp phải sử dụng điện năng tái tạo và cung cấp chứng chỉ REC để chứng minh. Mặt khác, doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn tín chỉ các-bon để đạt các mục tiêu riêng, trực tiếp giảm giảm lượng phát thải khí nhà kính, thay vì gián tiếp thông qua mua điện từ năng lượng tái tạo. Thêm vào đó, các quy định cũng ảnh hưởng tới việc lựa chọn, ví dụ các công ty có lượng phát thải vượt hạn mức cho phép cần phải mua tín chỉ để bù đắp cho lượng phát thải vượt mức đó. Ngoài ra, thủ tục phức tạp và thời gian dài hơn để phát triển dự án tín chỉ các-bon là một cản trở cho doanh nghiệp khi lựa chọn loại hình này.
3.2. Một số ý kiến đề xuất
Thông qua việc tác động tới các doanh nghiệp, tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo là những công cụ để cơ quan quản lý khuyến khích phát triển năng lượng sạch mà không cần đầu tư trực tiếp từ ngân sách. Các công cụ này cũng có thể được sử dụng để xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế và tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ năng lượng sạch hoặc áp dụng giải pháp giảm phát thải. Ngoài ra, các cơ chế cho việc mua bán tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo cũng mở ra những thị trường giao dịch tương ứng, cùng với đó là nhu cầu tư vấn liên quan tới kiểm kê khí nhà kính, đầu tư dự án giảm phát thải khí nhà kính và cách thức tham gia thị trường.
Hiện nay lộ trình xây dựng quy định quản lý tín chỉ các-bon và thành lập sàn giao dịch các-bon đã được ban hành góp phần định hình sự phát triển của thị trường các-bon trong tương lai tại Việt Nam. Để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thị trường, cần có những quy định tương tự cho chứng chỉ năng lượng tái tạo và cần có đơn vị quản lý thống nhất. Điều này giúp tránh việc đăng ký, sử dụng nhiều lần cho cùng lượng giảm phát thải hay lượng điện từ năng lượng tái tạo. REC cũng cần được giao dịch thông qua cơ quan quản lý tại Việt Nam để tăng tính minh bạch và đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia thị trường. Hơn nữa, cần có những quy định để tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo khuyến khích đầu tư mới thay vì những dự án đã được hưởng cơ chế khuyến khích khác trước đây, ví dụ như cơ chế giá FIT.
Doanh nghiệp khi tham gia vào các thị trường tín chỉ các-bon và chứng chỉ năng lượng tái tạo cũng cần nâng cao hiểu biết về các quy định của thị trường và loại hàng hóa đang được giao dịch. Những doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ, giải pháp giảm phát thải cần chuẩn bị để tạo ra hàng hóa cho thị trường các-bon trước khi sàn giao dịch chính thức vận hành. Việc tham gia vào các khóa đào tạo về tín chỉ các-bon, hạn ngạch phát thải, sàn giao dịch… được tổ chức bởi các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện gần đây là một trong những cách hiệu quả để nâng cao hiểu biết về thị trường các-bon.
Trích Tạp chí Phân tích và nhận định của PECC2 về Triển vọng Phát triển Năng lượng Việt Nam 2024
Tài liệu tham khảo:
[1] B. T. Minh, “Đánh giá mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong xu hướng phát triển bền vững và thực hành ESG”, 2024.
[2] V. N. “Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật”, 2022.
[3] World Bank, “Types of Carbon Pricing”, World Bank, https://carbonpricingdashboard.worldbank.org/.
[4] World Bank, “State and Trends of Carbon Pricing 2024”, 2024.
[5] World Bank, “State and Trends of Carbon Pricing Dashboard”, World Bank Group, 2024. https://carbonpricingdashboard.worldbank.org/.
[6] S. Donofrio, “Ecosystem Marketplace Insights Report - Paying for Quality - State of the Voluntary Carbon Markets 2023”, 2023.
[7] N. V. Minh, “Xây dựng Đề án phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam”, Môi trường, no. 10/2023, p. 31, 2023.
[8] Trung tâm Con người và Thiên nhiên, “Thị trường các-bon: Tiềm năng và triển vọng của Việt Nam”, Bản tin Chính sách Tài nguyên - Môi trường - Phát triển bền vững, no. 33/2023.
[9] E. R. Fund, “Understanding your soil carbon project”, Australian Government, Clean Energy Regulator, Australia, 2021.
[10] EPA, “Renewable Energy Certificates (RECs)”, https://www.epa.gov/green-power-markets/renewable-energy-certificates-recs.
[11] The International Rec Standard Foundation, “Understanding EAC Schemes and Roadmaps for Their Development”, 2020.
[12] H. M. “Tổng quan về chứng chỉ Năng lượng tái tạo, sự khác biệt với Tín chỉ các-bon và lợi ích đối với các doanh nghiệp hiện nay”, Cục điều tiết điện lực - Bộ Công thương, 2024.
[13] S. Pole, “Energy Attribute Certificates (EACs)”, 2024. https://www.southpole.com/sustainability-solutions/energy-attribute-certificates.
[14] N. K. Upadhyay, “International Renewable energy certificates: The I-REC Standard (Part-I)”, https://www.ccarbon.info/article/international-renewable-energy-certificates-the-i-rec-standard-part-i/.
[15] ERAV, “Tổng quan về chứng chỉ Năng lượng tái tạo, sự khác biệt với Tín chỉ các-bon và lợi ích đối với các doanh nghiệp hiện nay”, ERAV, https://www.erav.vn/tin-tuc/t36740/tong-quan-ve-chung-chi-nang-luong-tai-tao-su-khac-biet-voi-tin-chi-các-bon-va-loi-ich-doi-voi-cac-doanh-nghiep-hien-nay.html.
[16]The International Tracking Standard Foundation, “The I-TRACK Foundation”, The International Tracking Standard Foundation, https://www.trackingstandard.org/about-us/.
[17] Exabytes, “Introducing The Registries: I-REC and TiGR”, Saxon Renewables, https://saxonrenewables.com/i-rec-tigr-energy-registries/.
[18] J. Leisch, “Thị trường chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC) tại Việt Nam”, USAID V-LEEP II, 2022.
[19] R. Tan, “Vietnamese I-REC prices hit record low, unredeemed figures rise to 1.32 TWh”, S&P Global, https://www.spglobal.com/commodityinsights/en/market-insights/latest-news/energy-transition/081524-vietnamese-i-rec-prices-hit-record-low-unredeemed-figures-rise-to-132-twh.
[20] APERC, “Renewable Energy Certificates (RECs) in Six APEC Southeast Asia Economies”, Asia-Pacific Economic Cooperation, 2023.
[21] USAID V-LEEP, “REC Support to EESD – Deliverable 1: REC Stocktaking and Mapping”, USAID, 2021.
[22] Evident, “I-REC for Electricity Product Code”, 2022.