MỘT SỐ THÁCH THỨC VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Năng lượng là tài nguyên thiết yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đồng thời gắn liền với các vấn đề chính trị quốc tế, ngoại giao và an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như trong công tác chính trị và ngoại giao của các nước. Chính vì vậy, đảm bảo an ninh năng lượng luôn là mục tiêu ưu tiên trong các quyết sách chuyển dịch năng lượng của Việt Nam.

1. Đảm bảo an ninh năng lượng

Năng lượng là tài nguyên thiết yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đồng thời gắn liền với các vấn đề chính trị quốc tế, ngoại giao và an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như trong công tác chính trị và ngoại giao của các nước. Chính vì vậy, đảm bảo an ninh năng lượng luôn là mục tiêu ưu tiên trong các quyết sách chuyển dịch năng lượng của Việt Nam, đặc biệt trong Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 11/02/2020 và Quyết định số 893/QĐ-TTg ban hành ngày 26/7/2023.

Theo định nghĩa của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), an ninh năng lượng là việc đảm bảo nguồn cung năng lượng liên tục, ổn định ở mức giá đủ khả năng chi trả. Vào năm 2020, Hội đồng Năng lượng Thế giới đã đưa ra một khái niệm mới về an ninh năng lượng – “Năng lực phục hồi động” (dynamic resilience) [1]. Năng lực phục hồi động là một cách tiếp cận tích hợp về quản lý rủi ro, bao gồm việc thích ứng với biến đổi khí hậu, đối phó với các mối đe dọa vật lý và kỹ thuật số đối với cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, và phối hợp các hệ thống năng lượng vượt qua các rào cản. Khái niệm này trở nên cấp bách hơn bao giờ hết trước các cuộc khủng hoảng địa chính trị gần đây, đại dịch, và những gián đoạn nghiêm trọng trong hệ thống năng lượng toàn cầu. Khung năng lực phục hồi động vẫn đang được Hội đồng Năng lượng Thế giới phát triển, tập trung vào 3 nhóm công việc: Các bài học cho thấy ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan đến hệ thống năng lượng và sự cần thiết phải xử lý các nguy cơ; Xây dựng chính sách thông qua mô phỏng để thúc đẩy đối thoại và chia sẻ chiến lược phục hồi liên quan đến chuyển đổi số chuỗi cung ứng năng lượng; Trực quan hóa và lập bản đồ động để dự đoán và ứng phó với rủi ro trong quản lý tài sản năng lượng.

Các loại năng lực trong khung Năng lực phục hồi động - An ninh năng lượng. 

Các nước trên thế giới thường thể hiện mức độ bảo đảm an ninh năng lượng qua bộ chỉ số ESI (Energy security index). Bộ chỉ số ESI gồm các chỉ số sau:

  • Trữ lượng nhiên liệu và sản xuất năng lượng trong nước: Đánh giá sự bền vững của các nguồn năng lượng quốc nội để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước, thường được tính bởi số năm sử dụng trữ lượng. 
  • Hệ số đa dạng nguồn năng lượng cung cấp: Đánh giá mức độ bền vững và an ninh của hệ thống năng lượng, được tính bằng trung bình bình phương tỷ trọng các dạng năng lượng trong tổng cung năng lượng quốc gia. 
  • Hệ số phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng: Đo lường mức độ phụ thuộc của quốc gia vào nguồn cung cấp năng lượng từ các quốc gia khác thông qua quá trình nhập khẩu, là tỷ lệ giữa tổng năng lượng nhập khẩu trên tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp.
  • Cường độ năng lượng: Đo lường mức độ sử dụng năng lượng của quốc gia trên GDP. Cường độ năng lượng có đơn vị TOE/1000 USD GDP, trong đó TOE là giá trị năng lượng tương đương của một tấn dầu có nhiệt trị 10.000 kcal/kg, tức 10.000.000 kcal hay 41.870 MJ, hay 11,622 MWh.   
  • Hệ số đàn hồi năng lượng: Thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu năng lượng, được tính bằng tỷ lệ tăng trưởng tiêu thụ năng lượng so với tăng trưởng GDP.
  • Hệ số cường độ CO2 trên GDP: Đánh giá mức độ hiệu quả của một nền kinh tế trong việc sử dụng năng lượng và tạo ra sản phẩm và dịch vụ mà không gây ra quá nhiều lượng khí thải, được tính bằng tỷ lệ giữa tổng lượng phát thải tương đương CO2 và GDP.

2. Phân tích sơ bộ đối với thực trạng an ninh năng lượng Việt Nam hiện nay:

Nghị quyết 55-NQ/TW ban hành ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã chỉ ra một số thách thức đối với ngành năng lượng Việt Nam. Cho đến hiện nay, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc đảm bảo an ninh năng lượng, trong đó có sự suy giảm trữ lượng năng lượng trong nước, sự phụ thuộc vào nhập khẩu, đến hiệu quả sử dụng năng lượng còn thấp và cường độ phát thải cao. Trong giới hạn thời gian thực hiện nội dung ấn phẩm này, chương này chỉ đưa ra một số phân tích sơ bộ tình hình an ninh năng lượng Việt Nam theo các khía cạnh của bộ chỉ số ESI như sau:

2.1. Về trữ lượng nhiên liệu và sản xuất năng lượng trong nước

Việt Nam có nguồn tài nguyên năng lượng đa dạng, bao gồm than, dầu khí, và các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó bao gồm thủy điện, sinh khối và các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi. 

Tuy nhiên, trữ lượng các nguồn năng lượng truyền thống đang giảm dần, trong đó:

  • Than: Trữ lượng than tập trung tại Quảng Ninh, với khả năng khai thác kéo dài thêm vài thập kỷ. Tuy nhiên, than chất lượng cao dành cho nhiệt điện đang suy giảm nhanh chóng.
  • Dầu khí: Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt đã được khai thác tại các bể trầm tích lớn ở thềm lục địa đã qua thời kỳ đỉnh cao khai thác. Một số mỏ nhận lại từ nhà thầu nước ngoài vẫn chưa có cơ chế điều hành. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã phát hiện một số mỏ mới với trữ lượng lớn, chẳng hạn như Lô B, Cá Voi Xanh, nhưng chưa khai thác được do vướng mắc nhiều vấn đề, trong đó có cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế đồng bộ cho thị trường khí và thị trường điện. Vì thế, nguồn cung dầu khí trong nước hiện không đáp ứng đủ nhu cầu nội địa.

Đối với các nguồn năng lượng tái tạo: Điện mặt trời và điện gió bùng nổ trong giai đoạn 2020-2023, với tổng công suất đặt hơn 20 GW, chiếm 27% tổng công suất nguồn điện quốc gia năm 2023. Trong 9 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy điện, điện gió và mặt trời đạt 95,65 tỷ kWh, tương ứng 41,12% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống [3]. Tuy vậy, việc phát triển các nguồn điện gió và mặt trời cần đi cùng với việc mở rộng lưới điện và phát triển các nguồn điện ổn định khác hoặc lưu trữ năng lượng, dẫn đến gia tăng chi phí đầu tư và kéo dài thời gian phát triển. Trong khi đó, tiềm năng thủy điện Việt nam đã không còn nhiều để tiếp tục phát triển, mở rộng.

2.2. Về mức độ đa dạng nguồn năng lượng sơ cấp

Mức độ đa dạng hóa nguồn năng lượng sơ cấp của Việt Nam đang ở mức trung bình. Mặc dù đã có sự dịch chuyển mạnh mẽ sang năng lượng tái tạo giai đoạn 2019 - 2021, tỷ trọng nguồn nhiên liệu hóa thạch trong tổng cung năng lượng sơ cấp Việt Nam vẫn còn cao, khoảng 78,76% trong năm 2022 [4]. Tỷ trọng thủy điện trong cung cấp điện giảm từ 95,910 triệu kWh vào năm 2022 xuống còn 80,904 triệu kWh vào năm 2023 [5] do nguồn nước không ổn định, trong khi vai trò của năng lượng tái tạo đang tăng nhưng chưa đủ cân bằng rủi ro thiếu điện. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có thành phần điện hạt nhân trong cơ cấu nguồn điện hiện tại.

2.3. Về mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng

Tỷ lệ nhập khẩu năng lượng của Việt Nam gia tăng đáng kể trong những năm gần đây. Khoảng 51 triệu tấn than đã được nhập khẩu về thị trường nội địa trong năm 2023, tăng tới 61,4% về lượng so với năm 2022 [6]. Than nhập khẩu, chủ yếu từ Australia, Indonesia và Nga, chiếm gần 50% tổng nhu cầu than vào năm 2023. Trong 7 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu than các loại của Việt Nam đạt 40,49 triệu tấn, tăng 36,9% về lượng và tăng 16,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2023 [7]. Việt Nam cũng bắt đầu nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG) để bù đắp sự suy giảm từ các mỏ khí nội địa. 

Việc phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng làm tăng nguy cơ mất an ninh năng lượng do biến động giá cả và căng thẳng địa chính trị.

2.4. Về cường độ năng lượng

Cường độ năng lượng của Việt Nam (lượng năng lượng tiêu thụ trên một đơn vị GDP) vẫn ở mức cao so với các quốc gia trong khu vực. Theo số liệu thống kê, chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp Việt Nam khoảng 376 TOE với mỗi 1000 USD GDP được tạo ra. Trong khi đó, trung bình trên thế giới chỉ vào khoảng 170 TOE; với các nước trong Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OEEC) là khoảng 104 TOE. Chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp Việt Nam cũng cao gấp 3-4 lần so với các nước phát triển như Nhật Bản (90 TOE), Singapore (99 TOE) [8]. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như sản xuất thép, xi măng và hóa chất. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải thiện hiệu quả năng lượng, tiến độ cải thiện vẫn chậm so với kỳ vọng. 

2.5. Về hệ số đàn hồi năng lượng

Tuy đang có chiều hướng giảm trong những năm gần đây, hệ số đàn hồi năng lượng của Việt Nam năm 2023 vẫn còn lớn hơn 1,2 [8], cao hơn mức khuyến nghị quốc tế là dưới 1. Điều này cho thấy vẫn còn sự chưa cân xứng giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả sử dụng năng lượng, dẫn đến áp lực lớn lên hệ thống năng lượng quốc gia.

2.6. Về hệ số cường độ CO2 trên GDP

Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có hệ số cường độ CO2 trên GDP cao. Năm 2022, Việt Nam có tổng lượng phát thải khí nhà kính là 489,159 triệu tấn CO2 tương đương, lượng phát thải tính trên đầu người là 4,882 tấn CO2 tương đương/người. Hệ số cường độ CO2 trên GDP của Việt Nam là 0,437 tấn CO2 tương đương/1000USD GDP.  Hệ số cường độ này cao hơn hệ số tương ứng của Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và cao hơn mức trung bình thế giới, khoảng 0,386 tấn CO2 tương đương/1.000USD GDP (2022) [9]. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất điện, các ngành công nghiệp và giao thông vận tải đóng góp hơn 70% lượng phát thải CO2 ở Việt Nam. Dù năng lượng tái tạo đang tăng trưởng mạnh mẽ, xong chưa thể thay thế ngay các nguồn điện phát thải cao. Bên cạnh đó, quá trình điện khí hóa các ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc vào sự phát triển công nghệ trên thế giới. 

Thay đổi mức phát thải khí nhà kính của các lĩnh vực tại Việt Nam 
(tính theo triệu tấn CO2 tương đương)

3. Một số thách thức và định hướng giải pháp phát triển năng lượng Việt Nam

Quyết định số 893/QĐ-TTg ban hành ngày 26/7/2023 phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đặt ra các mục tiêu về đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và chuyển đổi công nghệ trong ngành năng lượng. Xét riêng trong lĩnh vực Điện lực, Quyết định số 500/QĐ-TTg ban hành ngày 15/5/2023 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đặt ra các mục tiêu về nguồn cung cấp điện, cơ cấu nguồn điện, đáp ứng tiêu thụ điện năng, giảm phát thải khí nhà kính, hiệu quả sử dụng năng lượng, và xuất nhập khẩu điện.

Có thể nhận thấy một số thách thức từ các mục tiêu được nêu trong Quyết định số 893/QĐ-TTg và Quyết định số 500/QĐ-TTg, như sau:

  • Nguồn vốn lớn cần thiết để đạt các mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng.
  • Nhu cầu phụ tải điện phát triển nhanh, yêu cầu tốc độ phát triển tương ứng của các nguồn điện và hạ tầng truyền tải điện.
  • Mức độ phụ thuộc nhập khẩu năng lượng đến 2030 còn cao.
  • Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản xuất điện năm 2030 khá cao, đến 47% (nếu huy động nguồn lực từ JETP), dẫn đến các thách thức về nguồn điện chạy nền và độ linh hoạt lưới điện.
  • Tỷ lệ tiết kiệm năng lượng cao, đến 10%, so với kịch bản thông thường năm 2030, yêu cầu nhiều nỗ lực trong tiết kiệm và hiệu quả năng lượng.
  • Một số thách thức khác liên quan đến tỷ lệ cắt giảm khí nhà kính, quy mô công suất sản xuất hydro xanh…

Quyết định số 893/QĐ-TTg đã định hướng một số giải pháp, nguồn lực để thực hiện quy hoạch, trong đó có một số định hướng đáng chú ý sau:

Định hướng các giải pháp về vốn:

  • Đa dạng hóa nguồn vốn và hình thức đầu tư, sử dụng các nguồn vốn từ cam kết quốc tế.

Định hướng các giải pháp về thị trường và giá năng lượng:

  • Phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành.
  • Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
  • Thực hiện tái cơ cấu ngành năng lượng với lộ trình cụ thể.
  • Từng bước đưa giá năng lượng vận hành theo cơ chế thị trường cạnh tranh, đảm bảo phản ánh đúng các chi phí hợp lý hợp lệ, minh bạch, công khai.

Định hướng các giải pháp về năng lượng tiết kiệm và hiệu quả:

  • Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
  • Cơ cấu lại các ngành tiêu thụ năng lượng để giảm thiểu cường độ năng lượng.
  • Rà soát, điều chỉnh phân bố các nguồn tiêu thụ năng lượng linh hoạt theo hướng phân tán.
  • Rà soát, hoàn thiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2020 – 2030.

Định hướng các giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ:

  • Nghiên cứu, xây dựng chính sách thuế các-bon thích hợp đối với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
  • Hoàn thiện khung chính sách, xây dựng và bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về khí thải và chất thải trong ngành năng lượng.
  • Hình thành cơ chế liên kết giữa lực lượng nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học và công nghệ.
  • Tiếp tục triển khai chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng giai đoạn 2021 - 2030, trọng tâm là nghiên cứu chế tạo thiết bị năng lượng và ứng dụng các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, tiết kiệm năng lượng.

Định hướng các giải pháp về phát triển nguồn lực:

  • Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực tổng thể và các chương trình đào tạo cho những khâu then chốt của ngành năng lượng
  • Xây dựng cơ chế đãi ngộ thích đáng để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực năng lượng.
  • Thông qua các dự án đầu tư để đào tạo, tiếp nhận các công nghệ mới, hiện đại.

Định hướng các giải pháp về hợp tác quốc tế:

  • Thực hiện chính sách đối ngoại năng lượng linh hoạt, hiệu quả, bình đẳng, cùng có lợi.
  • Tích cực hợp tác trong khuôn khổ JETP, hợp tác năng lượng tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) và khu vực Đông Nam Á (ASEAN).
  • Mở rộng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Tài liệu tham khảo:
[1] World Energy Council, "World Energy Trilemma 2024," 2024.
[2] P. T. H. Đ. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, "Phân tích thực trạng an ninh năng lượng tại Việt Nam sử dụng chỉ số ESI và mô hình RCA," Tạp chí Kinh tế & Phát triển, 2024. 
[3] EVN, "Tình hình hoạt động 9 tháng đầu năm và mục tiêu, nhiệm vụ công tác quý IV năm 2024," 2024.
[4] Danish Energy Agency, Embassy of Denmark, MOIT, EREA, "Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2024," 2024.
[5] Tạp chí Năng lượng Việt Nam, "Tập đoàn Điện lực Việt Nam năm 2023 - Hoạt động trong biến động khôn lường," 2024.
[6] Bộ Công thương, "Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2023," 2024.
[7] Trung tâm WTO, "Nhập khẩu than các loại tăng gần 37% về lượng so với cùng kỳ," 2024.
[8] EVN, "Tiết kiệm điện: Cần hành động quyết liệt, liên tục," 2024.
[9] JRC/IEA, "GHG emissions of all world countries," JRC Science for Policy, 2023.
[10] IEA, "World Energy Outlook 2022," 2022.
[11] IEA, "World Energy Outlook 2023," 2023.
[12] IEA, "World Energy Outlook 2024," 2024.
[13] Bộ Tài nguyên môi trường, "Bộ Tài nguyên môi trường," 15 07 2024. [Online]. Available: https://monre.gov.vn/Pages/viet-nam-chu-dong,-tich-cuc-trien-khai-tuyen-bo-jetp.aspx. [Accessed 1 12 2024].
[14] SETP, "EU – VIET NAM SUSTAINABLE ENERGY TRANSITION PROGRAMME (SETP)," [Online]. Available: https://setp.vn/. [Accessed 01 12 2024].
[15] IEA, "Energy Technology Perspectives 2020- Special Report on Clean Energy Innovation," 2020.
[16] IEA, "Energy Technology RD&D Budgets Data Explorer," 2024.
[17]  US DOE, "The SunShot Initiative," [Online]. Available: https://www.energy.gov/eere/solar/sunshot-initiative. [Accessed 01 12 2024].
[18] Europe Commision, "Horizon Europe," [Online]. Available: https://research-and-innovation.ec.europa.eu/funding/funding-opportunities/funding-programmes-and-open-calls/horizon-europe_en. [Accessed 02 12 2024].
[19] Europe Commision, "The European Green Deal," [Online]. Available: https://commission.europa.eu/strategy-and-policy/priorities-2019-2024/european-green-deal_en. [Accessed 02 12 2024].
[20] Havard Business Review, "History Backs Up Tesla’s Patent Sharing," 13 06 2014. [Online]. Available: https://hbr.org/2014/06/history-backs-up-teslas-patent-sharing. [Accessed 02 12 2024].
[21] F. R. P. F. Alaize Dall-Orsoletta, "Open and collaborative innovation for the energy transition: An exploratory study," Technology in Society, vol. 69, 2022. 
[22] ISGAN, "Policy messages on Innovative Regulatory Approaches with Focus on Experimental Sandboxes to Enable Smart Grid Deployment".
[23] ISGAN, "Smart Grid Case Studies-Innovative Regulatory Approaches with focus on Experimental Sanboxes," 2019.
 

Theo Tạp chí Phân tích và nhận định của PECC2 về Triển vọng Phát triển Năng lượng Việt Nam 2024

Chia sẻ: