1. Triển vọng phát triển và vai trò của điện gió ngoài khơi trong ngành năng lượng Việt Nam
1.1. Hiện trạng các dự án điện gió ven bờ và điện gió ngoài khơi của Việt Nam
1.1.1. Hiện trạng các dự án điện gió ven bờ của Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có 17 dự án điện gió ven bờ đã đi vào vận hành thương mại với tổng công suất đặt 763,45 MW, chiếm tỷ lệ 19,2% so với tổng công suất đặt điện gió của Việt Nam (3980 MW). Danh sách các dự án và công suất đặt đã được công nhận (COD) kèm theo được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Bảng danh sách dự án điện gió ven bờ đã vận hành (COD)
STT |
Tên nhà máy |
Địa điểm |
Công suất đã được công nhận COD (MW) |
Công suất tổng cộng |
763,45 |
||
1 |
Bạc Liêu |
Bạc Liêu |
99,2 |
2 |
Nhà máy điện (NMĐ) gió Đông Hải 1 Bạc Liêu |
Bạc Liêu |
50 |
3 |
NMĐ gió V1-3 Bến Tre - Giai đoạn 1 (GĐ 1) |
Bến Tre |
29,4 |
4 |
NMĐ gió Hòa Bình 1, tỉnh Bạc Liêu |
Bạc Liêu |
50 |
5 |
NMĐ gió Hòa Bình 1 - Giai đoạn 2 (GĐ 2) |
Bạc Liêu |
50 |
6 |
NMĐ gió Đông Hải 1 - GĐ 2 |
Bạc Liêu |
50 |
7 |
NMĐ gió Tân Thuận - GĐ 1 |
Cà Mau |
25 |
8 |
NMĐ gió Số 7 |
Sóc Trăng |
29,4 |
9 |
NMĐ gió Hàn Quốc Trà Vinh - GĐ1 |
Trà Vinh |
48 |
10 |
NMĐ gió VPL Bến Tre |
Bến Tre |
25,2 |
11 |
NMĐ gió Số 3 tại vị trí V1-3 |
Trà Vinh |
48 |
12 |
NMĐ gió Số 5 Thạnh Hải 1 |
Bến Tre |
30 |
13 |
NMĐ gió Tân Thuận GĐ 2 |
Cà Mau |
50 |
14 |
NMĐ gió Hòa Bình 2 |
Bạc Liêu |
50 |
15 |
NMĐ gió Đông Hải 1 Trà Vinh |
Trà Vinh |
100 |
16 |
NMĐ gió Số 5 Thạnh Hải 2 |
Bến Tre |
4,25 |
17 |
NMĐ gió Tân Ân 1 - GĐ 1 |
Cà Mau |
25 |
Các dự án ven bờ đã góp phần đáng kể cung cấp công suất ổn định vào hệ thống điện quốc gia. Lợi thế của các dự án điện gió ven bờ là có vận tốc gió tốt và thi công thuận lợi hơn so với các dự án điện gió trên bờ do không vướng mặt bằng thi công. Ngoài ra, các dự án ven bờ có các đường dây kết nối ngắn nên giảm tổn thất truyền tải đáng kể. Tuy nhiên, các dự án điện gió ven bờ cũng có một số ảnh hưởng nhất định, trong đó nổi bật nhất là ảnh hưởng đến giao thông đường thủy ven bờ khi nhiều dự án xây dựng cầu cáp để giảm chi phí đầu tư so với phương án sử dụng cáp ngầm.
1.1.2. Hiện trạng về điện gió ngoài khơi của Việt Nam
Theo Quy hoạch điện VIII thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 (sau đây gọi là Quy hoạch điện VIII), Việt Nam đặt mục tiêu đạt 6 GW công suất đặt điện gió ngoài khơi vào năm 2030. Tuy nhiên, tính đến thời điểm 11/2024, Việt Nam chưa có dự án điện gió ngoài khơi nào được lắp đặt. Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII ban hành theo Quyết định số 262/QĐ-TTT ngày 1/4/2021 mới chỉ phân bổ công suất điện gió ngoài khơi theo vùng. Cụ thể, khu vực Bắc Bộ: 2,5 GW; khu vực Trung Trung Bộ: 0,5 GW; khu vực Nam Trung Bộ: 2 GW; khu vực Nam Bộ: 1 GW. Tuy nhiên, kế hoạch thực hiện này chưa xác định cụ thể về dự án nào sẽ triển khai trong số các dự án mà các nhà phát triển đã đề xuất. Đến nay, mới chỉ có 2 dự án được phép khảo sát. Danh sách các dự án được phép khảo sát và nội dung khảo sát được thể hiện trong Bảng 2.
Bảng 2. Danh sách các dự án điện gió ngoài khơi được cấp phép khảo sát ở Việt Nam
STT |
Tên |
Đơn vị phát triển |
Địa điểm |
Hạng mục khảo sát |
Thời điểm |
Thời gian khảo sát |
Cơ quan cấp phép |
1 |
Xuất khẩu năng lượng tái tạo [1] |
Liên danh PTSC-Sembcorp |
Vùng biển tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu |
Khảo sát địa vật lý, địa kỹ thuật, khảo sát đánh giá tác động môi trường và xã hội, khảo sát đo gió, khí tượng và hải dương |
24/8 năm 2024 |
36 tháng |
Bộ Tài nguyên và Môi trường |
2 |
Thăng Long Wind [2], [3] |
Tập đoàn Enterprize Energy |
Ngoài khơi tỉnh Bình Thuận |
Đo gió, khảo sát sinh thái và môi trường biển, khảo sát địa vật lý, khảo sát địa chất công trình |
12/6 năm 2019 |
12 tháng |
Bộ Công Thương (Văn bản số 4146/BCT-ĐL) |
Để thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi của Việt Nam, ngoài việc cấp phép khảo sát, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 02 năm 2021 về “Quy định việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển” [4]. Ngoài ra, việc ban hành Nghị quyết số 139/2024/QH15 của Quốc hội về “Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050” [5] và việc ban hành Quyết định số 262/QĐ-TTg về “Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050“ trong đó đề cập việc giao Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nghiên cứu, khảo sát về các điều kiện phát triển điện gió ngoài khơi, sẵn sàng triển khai khi được các cấp thẩm quyền giao chủ đầu tư là các cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quy hoạch và phát triển điện gió ngoài khơi của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện còn tồn tại nhiều bất cập trong việc triển khai dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam. Cụ thể, chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển và cho phép các tổ chức thực hiện các công tác điều tra, khảo sát phục vụ phát triển dự án điện gió ngoài khơi; chưa có yêu cầu và hướng dẫn về việc đánh giá tác động môi trường của dự án điện gió ngoài khơi; chưa có quy định rõ ràng về việc tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức trong nước liên kết với tổ chức nước ngoài trong việc phát triển dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam [6].
1.2. Triển vọng phát triển và vai trò của điện gió ngoài khơi trong ngành năng lượng Việt Nam
Theo Quy hoạch điện VIII, công suất đặt điện gió ngoài khơi Việt Nam đạt mốc 6 GW vào năm 2030 và định hướng đến năm 2050 đạt 91,5 GW. Theo đó, vào năm 2030 và 2050 điện gió ngoài khơi sẽ lần lượt chiếm tỉ lệ 4% và 16% trong cơ cấu các nguồn điện Việt Nam (Hình 6.1). Để Việt Nam đạt mục tiêu trung hòa các-bon vào năm 2050, điện gió ngoài khơi đóng vai trò quan trọng do có tiềm năng lớn, ổn định hơn điện gió trên bờ và năng lượng mặt trời. Theo đánh giá bước đầu của Ngân hàng thế giới [7], tiềm năng kỹ thuật của điện gió ngoài khơi Việt Nam trong phạm vi vùng biển các bờ 200 km vào khoảng 599 GW bao gồm 261 GW móng cố định (tính với độ sâu nhỏ hơn 50 m) và 338 GW móng nổi. Như vây, kế hoạch định hướng đạt công suất đặt 91,5 GW vào 2050 chỉ chiếm chưa đến 20% tiềm năng gió ngoài khơi của Việt Nam.
Hình 1. Cơ cấu các nguồn điện Việt Nam theo Quy hoạch điện VIII vào năm 2030 và năm 2050 [8].
Quy hoạch điện VIII cũng đặt ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng của điện gió ngoài khơi cao hơn hẳn các nguồn điện gió còn lại. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2030 đến 2050, công suất đặt của điện gió ngoài khơi tăng 93% trong khi tổng công suất đặt của điện gió ven bờ và trên bờ chỉ tăng 72%. Mặt khác, dư địa phát triển mới cho thủy điện của Việt Nam hầu như không còn, ngoài ra sự kém ổn định hơn của điện mặt trời so với điện gió ngoài khơi trong điều kiện các nguồn năng lượng tái tạo khác như địa nhiệt, năng lượng sóng, năng lượng thủy triều, năng lượng nhiệt biển chưa có khả năng khai thác tại Việt Nam trong tương lai gần nên càng khẳng định vai trò quan trọng của điện gió ngoài khơi trong ngành năng lượng Việt Nam.
2. Các thách thức và rào cản phát triển điện gió ngoài khơi
2.1. Thách thức và rào cản đối với thế giới
Công nghệ tua-bin thế hệ mới với công suất lớn (>15 MW) dù đã được nghiên cứu kỹ và kiểm định trong điều kiện kiểm tra tiêu chuẩn ở quá trình sản xuất nhưng chưa có điều kiện kiểm nghiệm nhiều trong điều kiện thực tế do các dự án sử dụng thế hệ tua-bin mới này mới chỉ bắt đầu vận hành hoặc đang trong quá trình xây dựng và phát triển dự án nên hiện vẫn chưa xác định được rõ các rủi ro tiềm ẩn nào có thể xảy ra trong điều kiện làm việc thực tế, đặc biệt với các khu vực chịu ảnh hưởng của bão hoặc các khu vực có khí hậu nóng ẩm, điều kiện ăn mòn cao.
Công nghệ điện gió ngoài khơi móng nổi chưa bước vào giai đoạn trưởng thành để sẵn sàng cho việc thương mại hóa dù một số quốc gia đi đầu đang rất nỗ lực để thúc đẩy sự phát triển của công nghệ này. Hiện tại mới chỉ có các dự án thử nghiệm (công suất dự án thử nghiệm lớn nhất mới đạt 88 MW và sử dụng tua-bin công suất 8,6 MW) và các dự án trình diễn. Mức độ lạc quan về tốc độ phát triển về công suất đặt cũng như tốc độ giảm giá thành của công nghệ móng nổi trên thế giới ở thời điểm hiện tại có giảm đi so với dự báo của các năm trước do một số dự án đang bị trì hoãn và chậm tiến độ so với kế hoạch phát triển [9] đã đề ra cho dù vào tháng 9 năm 2024 Vương quốc Anh đã chính thức thông báo kết quả đấu thầu thành công dự án điện gió ngoài khơi móng nổi quy mô thương mại đầu tiên trên thế giới với công suất 400 MW [12] nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển chuỗi cung ứng của công nghệ móng nổi trong ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi.
Sự phát triển dồn dập về công suất đặt điện gió ngoài khơi trong giai đoạn 2021-2030 của các quốc gia trên thế giới đã dẫn đến sự căng thẳng và thiếu hụt về nguồn cung tua-bin, đội tàu và hạ tầng phục vụ việc xây dựng và vận hành kết hợp với chi phí nhân công và lãi suất tăng cao làm chi phí đầu tư xây dựng tăng nóng trong ngắn hạn khiến một số dự án điện gió ngoài khơi đã đấu thầu thành công ở một số quốc gia không thể triển khai với giá đã trúng thầu trước đây.
Thời gian phát triển và phê duyệt dự án khá dài, mất trung bình từ 5-7 năm để có thể bắt đầu xây dựng cũng là một trong những rào cản đối với điện gió ngoài khơi hiện nay. Một số quốc gia như Vương quốc Anh, Đức, Mỹ đang nghiên cứu đơn giản hóa thủ tục và thời gian phê duyệt dự án mà vẫn đảm bảo kiểm soát tốt các rủi ro về môi trường-xã hội và sự ảnh hưởng tới các ngành kinh tế liên quan.
2.2. Thách thức và rào cản đối với Việt Nam
Sự chậm trễ trong việc triển khai dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam sau khi Quy hoạch điện VIII ban hành do còn tồn tại nhiều bất cập chưa được giải quyết về các mặt sau đây:
Đối với các văn bản pháp lý cho điện gió ngoài khơi: Luật Biển Việt Nam (Luật số 18/2012/QH13) chưa có điều khoản cụ thể cho điện gió ngoài khơi. Mặt khác, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo (Luật số 82/2015/QH13) có Điều 19 quy định về trình tự, nội dung cấp phép nghiên cứu khoa học trên vùng biển Việt Nam đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, Điều 19 không quy định về khảo sát, nghiên cứu, xây dựng các dự án phát triển kinh tế biển nói chung (vốn tư nhân) và điện gió ngoài khơi nói riêng mà chỉ quy định về khảo sát, nghiên cứu cơ bản vốn ngân sách [17].
Về quy định liên quan đến giấy phép môi trường, hiện Việt Nam chưa có quy định cụ thể về trình tự và thủ tục đánh giá tác động môi trường cho dự án điện gió ngoài khơi. Trong Luật Bảo vệ môi trường (Luật số 72/2020/QH14) mới chỉ nêu quy định về đánh giá tác động môi trường (EIA) cho các dự án năng lượng tái tạo nói chung [17], trong khi dự án điện gió ngoài khơi có đặc thù riêng nên cần phải có quy định cụ thể cho riêng lĩnh vực này.
Liên quan đến quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi, hiện mới chỉ có Nghị quyết về Quy hoạch không gian biển quốc gia được ban hành. Tuy nhiên, kế hoạch thực hiện quy hoạch không gian biển chưa được ban hành dẫn đến chưa thể triển khai quy hoạch chi tiết cho điện gió ngoài khơi phục vụ việc đấu thầu và phát triển dự án [6].
Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa xây dựng được cơ chế lựa chọn nhà đầu tư, chưa xây dựng được cơ chế chính sách đấu thầu; chưa có sự chuẩn bị tốt về dữ liệu phục vụ công tác quy hoạch chi tiết cho điện gió ngoài khơi; chưa có kế hoạch xây dựng và phát triển đội tàu phục vụ công tác quản lý vận hành trang trại điện gió ngoài khơi.
3. Một số ý kiến đề xuất
3.1. Một số đề xuất chung
Để thúc đẩy sự phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam, ngoài các đề xuất liên quan đến việc bổ sung các văn bản pháp lý, các quy định và quy trình thực hiện trong việc phát triển và cấp phép dự án, việc đẩy nhanh kế hoạch việc thực hiện quy hoạch không gian biển trên cơ sở Nghị quyết đã ban hành để tạo cơ sở cho việc quy hoạch chi tiết phát triển điện gió ngoài khơi đóng vai trò quan trọng và cần được ưu tiên thực hiện càng nhanh càng tốt.
Việc quy hoạch chi tiết các vị trí dự án điện gió ngoài khơi tiềm năng để phục vụ việc đấu thầu nên được thực hiện bởi Cơ quan chuyên trách của Chính phủ để đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả và hài hòa với lợi ích của các ngành kinh tế biển khác và các yêu cầu về bảo tồn tài nguyên, di sản biển.
Cần có cơ chế rõ ràng trong việc nhà đầu tư tư nhân có nguồn vốn nước ngoài phát triển dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư có nguồn vốn nước ngoài kết hợp với nhà đầu tư có nguồn vốn nhà nước cùng đầu tư và phát triển dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam để đảm bảo đủ nguồn lực tài chính, tạo động lực xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng, chuyển giao công nghệ.
Chính phủ cần xây dựng cơ chế và lộ trình nội địa hóa chuỗi cung ứng một cách phù hợp với năng lực đáp ứng và khả năng phát triển của doanh nghiệp nội địa để đảm bảo cân bằng giữa yêu cầu, lợi ích của việc nội địa hóa chuỗi cung ứng với hiệu quả của dự án.
Chính phủ cần sớm có kế hoạch nâng cấp, chuyển đổi, xây mới hạ tầng cảng phục vụ ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi và có kế hoạch đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài.
3.2. Một số đề xuất liên quan khía cạnh kỹ thuật và công nghệ
Về khía cạnh kỹ thuật và công nghệ móng: Cần xây dựng và hệ thống hóa các tiêu chuẩn khảo sát, thiết kế móng trụ điện gió ngoài khơi dạng cố định trên cơ sở các tiêu chuẩn quốc tế đã hoàn chỉnh. Trong các loại công nghệ móng cố định thì móng đế tháp lưới (jacket) và móng cọc đơn (monopile) sẽ là những lựa chọn phù hợp nhất đối với Việt Nam ở những dự án có độ sâu từ 20m đến 60m. Móng monopile có thể sử dụng cho độ sâu lên tới 40m trong khi móng jacket có hiệu quả kinh tế ở độ sâu 35m đến 60m. Móng jacket 3 chân có nhiều ưu điểm hơn so với loại 4 chân truyền thống và phù hợp với nhiều dải công suất tua-bin và độ sâu khác nhau. Với những dự án có độ sâu lớn hơn 60m nên ứng dụng công nghệ móng nổi. Việt Nam cần thúc đẩy các tổ chức chuyên môn và doanh nghiệp Việt Nam tham gia nghiên cứu phát triển (R&D) công nghệ điện gió ngoài khơi móng nổi sớm nhất có thể để có cơ hội tham gia phát triển chuỗi cung ứng của loại công nghệ này cùng với thế giới trong những lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh chế tạo móng, chế tạo hệ thống neo.
Về việc lựa chọn công nghệ và công tua-bin phù hợp điều kiện Việt Nam: Các tua-bin có công suất từ 12 MW đến 15 MW hiện đang được sử dụng rộng rãi trong các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn trên thế giới. Việt Nam nên cân nhắc áp dụng công nghệ tua-bin mới với công suất trên 12 MW để tối ưu hóa hiệu suất và giảm chi phí vận hành trên mỗi MW công suất đối với các khu vực có tiềm năng gió lớn như Ninh Thuận – Bình Thuận, khu vực Trung Bộ và áp dụng công suất nhỏ hơn 6-8 MW cho các khu vực có gió thấp hơn như miền Tây Nam Bộ.
Về việc lựa chọn công nghệ trạm biến áp và truyền tải trong phạm vi dự án điện gió ngoài khơi:
Trích Tạp chí Phân tích và nhận định của PECC2 về Triển vọng Phát triển Năng lượng Việt Nam 2024
Tài liệu tham khảo:
[1] Báo điện tử Chính phủ, Liên danh PTSC - Sembcorp được cấp phép khảo sát biển cho dự án điện gió ngoài khơi, https://baochinhphu.vn/lien-danh-ptsc-sembcorp-duoc-cap-phep-khao-sat-bien-cho-du-an-dien-gio-ngoai-khoi-10223083008354209.htm, 2024.
[2] Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Lễ công bố Giấy phép khảo sát dự án ThangLong Wind – dự án điện gió khu vực ngoài khơi Mũi Kê Gà, https://dangcongsan.vn/y-te/le-cong-bo-giay-phep-khao-sat-du-an-thanglong-wind--du-an-dien-gio-khu-vuc-ngoai-khoi-mui-ke-ga-525419.html, 2019.
[3] GOSCO, Lễ công bố Giấy phép khảo sát dự án Thanglong Wind, https://gosco.vn/vi/announcement-ceremony-of-thang-long-wind-project-survey-license/ , 2019.
[4] Nghị định 11/2021/NĐ-CP, Quy định việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển, https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2021/02/11.signed.pdf , 2021.
[5] Nghị quyết số 139/2024/QH15 , Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-truong/Nghi-quyet-139-2024-QH15-Quy-hoach-khong-gian-bien-quoc-gia-thoi-ky-2021-2030-622827.aspx, 28/6/2024.
[6] Tạp chí năng lượng Việt Nam, Vướng mắc phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam và các giải pháp đột phá, cấp bách hiện nay, https://nangluongvietnam.vn/ket-luan-cua-chinh-phu-ve-giai-quyet-vuong-mac-phat-trien-dien-gio-ngoai-khoi-viet-nam-33219.html, 6/10/2024.
[7] The World Bank Group, "Offshore wind roadmap for Vietnam," https://documents1.worldbank.org/curated/en/261981623120856300/pdf/Offshore-Wind-Development-Program-Offshore-Wind-Roadmap-for-Vietnam.pdf , 2021.
[8] PECC2, QUY HOẠCH ĐIỆN VIII: CÁC NỘI DUNG CHÍNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐIỆN LỰC QUỐC GIA, https://pecc2.com/vn/quy-hoach-dien-viii-cac-noi-dung-chinh-va-dinh-huong-phat-trien-dien-luc-quoc-gia.html , 2023.
[9] National Renewable Energy Laboratory (NREL), "Offshore wind market report," https://www.nrel.gov/docs/fy24osti/90525.pdf , 2024.
[12] A. Carmel, Floating Offshore Wind Takeoff, https://www.linkedin.com/pulse/uk-renewable-energy-auction-resets-prices-offshore-wind-alon-carmel-omwxe/, September 2024.
[17] D. V. Toán, Điện gió ngoài khơi Việt Nam-Các thách thức và giải pháp chính sách, https://nangluongvietnam.vn/dien-gio-ngoai-khoi-viet-nam-thang-62024-cac-thach-thuc-va-giai-phap-chinh-sach-32716.html, 2024.